Skip to content

Dùng thuốc sau nhồi máu cơ tim

Bác Sĩ Tim Mạch 17.02.2019944 lượt xem
Nhồi máu cơ tim (NMCT) là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở các nước phát triển hiện nay, số bệnh nhân NMCT ở Việt Nam đang tăng lên nhanh chóng. Những tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị NMCT cấp đã làm giảm đáng kể tỷ lệ tử vong. Hiện nay, có khá nhiều các phương pháp khác nhau điều trị nhồi máu cơ tim như phẫu thuật cầu nối, nong và đặt stent động mạch vành, điều trị bằng thuốc…

Dau-that-nguc-nhoi-mau-co-tim

Tuy nhiên, dù bệnh nhân điều trị bằng phương pháp gì đi nữa thì điều trị thuốc vẫn là điều trị cơ bản và bắt buộc sau nhồi máu cơ tim. Điều trị nhồi máu cơ tim cấp hiện nay bao gồm các biện pháp:

Điều trị tái tưới máu bằng can thiệp động mạch vành:

Với hút huyết khối, nong bóng, đặt stent động mạch vành, tiêu sợi huyết, hoặc mổ mở cấp cứu

Điều trị nội khoa bằng uống thuốc kết hợp các chế độ sinh hoạt vận động:

Các thuốc điều trị sau nhồi máu cơ tim có vai trò rất quan trọng. Các thuốc này giúp ngăn ngừa và làm giảm nguy cơ tắc lại trong stent khi đã được can thiệp, làm giảm tỷ lệ tử vong và bảo tồn chức năng tim. Các thuốc này bao gồm:

Thuốc chống ngưng tập tiểu cầu: ở bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim được can thiệp động mạch vành, nguy cơ tắc lại trong stent là rất cao. Tắc lại trong stent được coi là một thảm họa trong tim mạch, với tỷ lệ tử vong cao. Cùng với thời gian, hiện tại có rất nhiều các loại thuốc chống kết tập tiểu cầu với hiệu quả ngày càng mạnh mẽ, giúp các bác sĩ can thiệp tự tin hơn khi đặt stent cho bệnh nhân. Hiện tại, bệnh nhân sau can thiệp phải được điều trị với hai loại thuốc chống ngưng tập tiểu cầu gọi là liệu pháp chống ngưng tập tiểu cầu kép. Thời gian dùng thuốc tùy thuộc vào loại stent được sử dụng. Hiện nay, loại stent được sử dụng nhiều nhất là stent phủ thuốc, và liệu pháp chống ngưng tập tiểu cầu kép thường được sử dụng trong 12 tháng. Sau đó, bệnh nhân sẽ duy trì một loại trọn đời, thường là aspirin. Đã có nhiều trường hợp tái nhập viện do tình trạng đau ngực và được chẩn đoán là hẹp hoặc tắc lại trong stent mà nguyên nhân hay gặp nhất chính là sự không tuân thủ điều trị của bệnh nhân.

Thuốc ức chế men chuyển hoặc thuốc chẹn thụ thể là loại thuốc giúp làm giảm tỷ lệ tử vong, giảm tái cấu trúc cơ tim sau nhồi máu, điều trị suy tim. Các thuốc ức chế men chuyển thường gặp trên thị trường là Lisinopril, Captopril, Trandolapril... Các thuốc ức chế thụ thể là Valsartan, Telmisartan, Eprosartan và Olmesartan. Thuốc sẽ được các thầy thuốc căn chỉnh liều để đạt hiệu quả cao nhất cho bệnh nhân và được dùng kéo dài sau nhồi máu cơ tim.

Uong-thuoc-sau-NMCT

Thuốc chẹn bê-ta giao cảm là thuốc giúp làm giảm tỷ lệ tử vong, giảm biến cố rồi loạn nhịp, điều trị suy tim. Thuốc cũng được dùng kéo dài, cần phải khám lại thường xuyên để thầy thuốc lâm sàng chỉnh liều tốt nhất cho bệnh nhân. Các thuốc thường dùng là Metoprolol, Carvedilol, Nebivolol, Bisoprolol...

Thuốc nhóm Statin là nhóm thuốc điều trị rối loạn mỡ máu nhưng gần đây đã được khẳng định vai trò quan trọng trong bảo vệ tim mạch với khả năng chống viêm thành mạch, ổn định màng xơ vữa. Một số thuốc thường được sử dụng như Atorvastatin, Rosuvastatin, Simvastatin, pravastatin, Fluvastatin, Pitavastatin.

Thuốc lợi tiểu, các thuốc điều trị triệu chứng, cải thiện chuyển hóa tế bào cơ tim có thể được dùng tùy thuộc vào từng bệnh nhân, mức độ nặng nhẹ của bệnh.

Nhóm các nhà khoa học thuộc Đại học Y Thái Nguyên đã nghiên cứu ứng dụng cây Dong riềng đỏ trong việc hỗ trợ phòng và chữa trị bệnh mạch vành. Dong riềng đỏ là loài cây quý nhưng không hiếm, từ lâu đã được biết đến với tác dụng điều trị bệnh mạch vành của người dân tộc Dao. Nhóm nghiên cứu đã chỉ ra những nhóm hoạt chất thiên nhiên có hoạt tính sinh học cao tương tự nhau trong cây Dong riềng đỏ như glucid, ancaloid, flavonoid, saponin, glucosid trợ tim, cumarin; là nguồn dược chất tự nhiên hỗ trợ làm giãn mạch, chống cục máu đông gây tắc mạch vành, tăng cường tưới máu cơ tim, thân thiện với con người.

Có thể khẳng định rằng điều trị thuốc sau nhồi máu cơ tim là bước rất quan trọng trong việc cải thiện tiên lượng sống còn của bệnh nhân, giúp làm hạn chế nguy cơ tắc lại trong stent cũng như tắc lòng mạch ở bệnh nhân bị xơ vữa mạch vành ở các mức độ khác nhau.

Biên tập bởi Bác sĩ tim mạch

Đánh giá bài viết
1 bầu chọn /trung bình: 5
Quảng cáo cuối bài tin