Skip to content

Động mạch là gì? Cấu tạo và chức năng của hệ thống động mạch

Bác Sĩ Tim Mạch 28.02.201726876 lượt xem
Các bệnh lý về hệ thống động mạch ngày càng nhiều, có những bệnh lý thậm chí gây nguy hiểm đến tính mạng. Cùng bacsitimmach.com.vn tìm hiểu động mạch là gì và cấu tạo, chức năng của hệ thống động mạch nhé.

Động mạch là gì?

Động mạch là gì

Hình ảnh về động mạch

Động mạch là một hệ thống các mạch máu chứa máu giàu oxy, đưa từ tim đến các mao mạch toàn cơ thể để cung cấp oxy cho các cơ quan bộ phận và các hoạt động sống. Động mạch chủ rời tim và bắt đầu phân thành những động mạch nhỏ hơn đến các bộ phận khác nhau của cơ thể. Các động mạch này lại được phân thành những động mạch nhỏ hơn nữa, được gọi là tiểu động mạch. Các tiểu động mạch khi đến mô, điều hòa phân phối máu vào các mao mạch phù hợp với nhu cầu của tổ chức.
Đặc điểm cấu tạo và chức năng của động mạch

Thành động mạch được cấu tạo bởi 3 lớp:

Lớp trong: Là lớp tế bào nội mạc, tiếp xúc trực tiếp với máu, tiếp đến là lớp cơ bản và lớp mô đàn hồi, gọi chung là lớp đàn hồi trong. Lớp tế bào nội mạc lót liên tục ở mặt trong của hệ tim mạch ( bao gồm tim và tất cả các mạch máu).
Lớp giữa: Là lớp dày nhất, bao gồm các tế bào cơ trơn và các sợi đàn hồi. Cơ trơn lớp này được chi phối bởi hệ giao cảm nên có thể làm thay đổi đường kính của mạch máu.
Lớp ngoài: Chủ yếu gồm những sợi collagen và sợi đàn hồi, ở những động mạch vừa, một lớp sợi đàn hồi ngoài ngăn giữa hai lớp ngoài và lớp giữa. Lớp ngoài giúp nâng đỡ và bảo vệ mạch máu. Ở những động mạch lớn có mạch máu nuôi động mạch.
Lớp giữa là lớp quyết định tính chất của động mạch, tùy theo từng tỉ lệ giữa sợi đàn hồi và tế bào cơ trơn. Ở các động mạch lớn như động mạch chủ hay động mạch cảnh chung... thành mỏng, có chứa nhiều sợi đàn hồi và có ít cơ trơn, nhờ sự giãn của các sợi đàn hồi nên chúng có khả năng dự trữ năng lượng, giúp cho máu chảy liên tục. Các động mạch vừa như là động mạch phân đến cơ quan, có thành dày hơn, chứa nhiều sợi cơ trơn và ít sợi đàn hồi, do đó chúng sẽ có khả năng co hoặc giãn rất lớn để giúp điều chỉnh lưu lượng máu đến cơ quan tùy theo nhu cầu của các cơ quan bộ phận.

Các đặc tính sinh lý của động mạch

Động mạch có tính đàn hồi:

Đàn hồi là sự trở về trạng thái ban đầu khi có một lực làm thay đổi, biến dạng ( như dây cao su, lò xo...).
Động mạch có tính đàn hồi: tim đập ngắt quãng, nhưng dòng máu vẫn chảy liên tục. Trong thời kỳ tâm thu, tâm thất bóp máu, tống vào động mạch làm cho động mạch giãn ra, lúc này nó nhận được một thế năng. Ở trong thời kỳ tâm trương, máu trở về tim, động mạch trở lại trạng thái ban đầu, trả lại thế năng đó và lại tiếp tục đẩy máu đi, làm cho máu chảy liên tục.

Động mạch có tính co thắt:

Lớp cơ trơn của thành động mạch được chi phối bởi thần kinh, chúng có thể chủ động thay đổi đường kính, nhất là ở hệ thống tiểu động mạch. Đặc tính này khiến cho lượng máu được phân phối đến cơ quan tùy theo từng nhu cầu của lúc hoạt động hay khi nghỉ ngơi.

Các yếu tố điều hòa tuần hoàn hệ thống động mạch

Động mạch không phải là một hệ thống những ống dẫn máu thụ động, ngược lại, nó đóng vai trò hết sức quan trọng cho việc phân phối máu đến các cơ quan, tổ chức. Trong thành động mạch có những sợi cơ trơn khiến cho chúng có khả năng chun giãn. Các sợi cơ trơn này chúng chịu sự chi phối của hệ thần kinh thực vật, đồng thời chúng còn chịu ảnh hưởng của nhiều các chất trong máu qua cơ chế thể dịch.

Cơ chế điều hòa tuần hoàn tại chỗ:

Nhằm đảm bảo hai chức năng:

  • Khi yêu cầu được tưới máu đến các cơ quan là hằng định, thì sự tự điều hòa nhằm giúp đảm bảo một sự cung cấp máu đến không đổi cho dù áp lực động mạch có thay đổi.
  • Khi máu được tưới đến các cơ quan là theo yêu cầu: Khi hoạt động, chẳng hạn ở cơ tim hoặc cơ vân, theo nhu cầu thì sự tưới máu có thể tăng gấp nhiều lần so với khi nghỉ ngơi.

Sự giãn cơ trơn ở hệ thống các tiểu động mạch còn tùy thuộc vào lưu lượng máu. Khi lưu lượng máu giảm, thì cơ trơn giãn và sự giãn mạch xảy ra. Khi áp suất tăng, truyền vào mạch tăng khiến cho mạch căng giãn tạo nên một sự co rút phản ứng, do phản ứng của cơ trơn thành mạch khi bị căng thì co lại.

Cơ chế điều hòa tuần hoàn bởi hệ thần kinh:

Trung tâm tim mạch:

Gồm một nhóm tế bào thần kinh ở trong hành não có chức năng điều hòa hoạt động của tim và huyết áp. Ở trạng thái bình thường, luôn luôn có những tín hiệu giao cảm xuất phát từ trung tâm vận mạch xuống mạch máu, làm mạch máu hơi co lại tạo trương lực mạch. Khi những tín hiệu giao cảm này tăng, gây co mạch và tăng huyết áp, gây co các tĩnh mạch, tăng lưu lượng tim và ngược lại.

Những chất cảm thụ áp suất (Baroreceptors):

Là những chất cảm thụ với sự thay đổi áp suất, chúng có ở thành động mạch lớn, tĩnh mạch và tâm nhĩ phải điều hòa huyết áp. Ba hệ thống điều hòa ngược hết sức quan trọng mà các thụ thể này tham gia là phản xạ ở động mạch chủ, xoang động mạch cảnh và phản xạ bên tim phải (phản xạ Bainbridge).Khi áp suất ở vùng quai động mạch chủ và xoang động mạch cảnh tăng lên, gây giãn mạch, huyết áp giảm, đồng thời chúng kích thích dây X làm tim đập chậm và ngược lại với áp suất giảm.

Những chất cảm thụ hóa học (chemoreceptors):

Là những chất cảm thụ nhạy cảm với sự thay đổi của PO2, PCO2 và pH máu, khu trú ở vùng quai động mạch chủ và xoang động mạch cảnh.
Khi PO2 trong máu động mạch giảm, sẽ kích thích vùng co mạch gây ra co mạch ngoại biên và tăng huyết áp. Tương tự như vậy khi PCO2 tăng và pH giảm.

Hệ thần kinh thực vật:

Từ trung tâm tim mạch ở hành não, xung động được truyền ra theo các sợi giao cảm và phó giao cảm đến tim và mạch máu. Hệ phó giao cảm thì quan trọng cho chức năng của tim, còn hệ giao cảm đóng vai trò quan trọng giúp điều hòa tuần hoàn của hệ thần kinh thực vật.
Hệ thần kinh giao cảm: Các sợi giao cảm gây ra tình trạng co mạch ở các động mạch, tiểu động mạch và tĩnh mạch.Có một vài sợi giao cảm đến mạch máu cơ vân là sợi cholinergic, chúng phóng thích ra acetylcholin gây giãn mạch.
Hệ thần kinh phó giao cảm: Chúng có vai trò nhỏ trong điều hòa tuần hoàn động mạch Tác dụng chủ yếu của hệ này là kiểm soát nhịp tim do các dây X đến tim làm giảm nhịp tim. Chất dẫn truyền thần kinh là acetylcholin.

Cơ chế điều hòa áp suất máu bởi hệ thống hormon:

Các chất gây co mạch như Norepinephrin, Epinephrin, hệ Renin-Angiotensin-aldoterone (RAA),Vasopressin (ADH : antidiuretic hormone)
Các chất gây giãn mạch: Nhóm Kinin: bradykinin huyết tương và lysilbradykinin trong mô, Prostaglandin, Histamin, ANP (ANF: atrial natriuretic peptide hay factor),Parathyroid hormon (PTH) và calcitriol.

Nguồn: https://bacsitimmach.com.vn.

Đánh giá bài viết
5 bầu chọn /trung bình: 4
Quảng cáo cuối bài tin